Cao Lan là một nhánh địa phương trong tộc người Sán Chay có dân số không đông, cư trú rải rác tại các tỉnh thuộc khu vực trung du miền núi Đông Bắc. Đây là một trong tám tộc người sinh tụ, góp phần hình thành những giá trị văn hoá tại 4 huyện miền núi Sơn Động, Yên Thế, Lục Nam, Lục Ngạn của tỉnh Bắc Giang xưa, nay là xã Sơn Động, Yên Thế, Lục Nam, Lục Ngạn và thị trấn Chũ thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Cao Lan là một tộc người đến cư trú ở Bắc Giang (cũ) tương đối muộn với số lượng người không đông. Địa bàn cư trú của đồng bào chủ yếu ở vùng đồi núi thấp, xen kẽ với những đồng bằng nhỏ hẹp và những khe suối. Điều kiện tự nhiên không nhiều ưu đãi nhưng với sự thích nghi của mình, đồng bào đã có đời sống vật chất và tinh thần hết sức phong phú, đa dạng và sinh động. Trong điều kiện giao thoa văn hoá với những tộc người lân cận, rất nhiều đặc điểm văn hóa truyền thống của họ hiện đã có những điểm tương đồng với các tộc người khác (như: Kinh, Tày, Nùng…). Tuy nhiên, họ vẫn lưu giữ/bảo tồn được những sắc thái đặc trưng. Đó là những phong tục truyền thống trong những ngày lễ tết, hội hè, những giá trị đặc sắc trong dân ca … và đặc biệt là trong nghi lễ hôn nhân, những yếu tố mang đậm sắc thái Cao Lan vẫn lan toả sống động trong cuộc sống hằng ngày của họ. Những giá trị văn hóa truyền thống ấy là tấm gương phản chiếu về quan niệm, đời sống tâm linh cũng như những mong ước của đồng bào trong cuộc sống hiện nay.
Hôn nhân là một lĩnh vực quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội, có sự khác biệt giữa các dân tộc, cộng đồng dân cư, vùng miền, lứa tuổi, nghề nghiệp… Hôn nhân mang một ý nghĩa thiêng liêng, gắn liền với đời sống văn hóa vật chất và tinh thần không chỉ của đôi trai gái mà còn là sự xác lập mối quan hệ gắn bó giữa hai gia đình, hai dòng họ.
Hôn nhân là sự kiện trọng đại của người Cao Lan, nó không chỉ là một dấu mốc trong nghi lễ vòng đời mà còn chứa đựng các giá trị văn hóa đặc thù của tộc người. Trong hôn nhân của người Cao Lan, con cái ít có quyền lựa chọn bạn đời cho mình, phần lớn là do cha mẹ quyết định. Và mỗi cuộc hôn nhân đều tuân thủ những nguyên tắc được quy định rất chặt chẽ của đồng bào.
Nguyên tắc ngoại hôn dòng tộc
Trong tục cưới hỏi, người Cao Lan có những quy định khá chặt chẽ. Hôn nhân của người Cao Lan tuân thủ nghiêm ngặt quy tắc ngoại hôn dòng họ. Những người cùng họ theo dòng cha, tuyệt đối không được lấy nhau. Với người Cao Lan, nếu đã là người cùng họ thì kể cả đến đời thứ 5 cũng không được phép lấy nhau. Sự phân biệt về tộc họ ở đây là việc cùng thờ chung một loại ma, cùng chung những kiêng kỵ trong thờ cúng, lễ tết và cùng chung hương hỏa. Người Cao Lan ở Bắc Giang có nhiều dòng họ như họ: Nịnh, Hoàng, Tống, Lý, Lục… Trong mỗi dòng họ, lại có nhiều chi thứ khác nhau. Nổi bật trong tín ngưỡng dòng họ của người Cao Lan là tục thờ “dinh húi”. Các “dinh húi” được thờ là những con vật nuôi, các con vật trong tự nhiên mà từ xa xưa, vì lý do nào đó đã tác động, ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của ông thủy tổ dòng họ. Những linh vật ấy, được ghi chép và truyền lại cho con cháu các đời sau phải kiêng kỵ, thờ cúng. Vì vậy, đến nay người Cao Lan có bao nhiêu dòng họ thì có bấy nhiêu loại ma và tục kiêng thờ ma hương hỏa. Thậm chí, mỗi ngành nhỏ, chi họ trong một họ lại có tục kiêng thờ khác nhau.
Trong hôn nhân, người Cao Lan thường lấy người cùng dân tộc với mình, có thể ở cùng làng bản, trong xã, trong huyện hay trong tỉnh, hoặc lấy người cùng tộc ở tỉnh ngoài. Nhưng hôn nhân cùng huyết thống thì không bao giờ xảy ra, thậm chí những người ở nơi khác, nhưng có cùng dòng họ cũng không được kết hôn với nhau. Trước đây người Cao Lan chỉ kết hôn với người Cao Lan, ngày nay, đã xuất hiện việc kết hôn với tộc người khác (như: Kinh, Tày, Dao…) tạo nên nhiều cặp vợ chồng “hỗn hợp”.
Nguyên tắc xem lá số so tuổi (dò liền xênh)
Trong hôn nhân của người Cao Lan, việc xem lá số có ý nghĩa quan trọng quyết định trong việc thành công hay thất bại của hôn nhân. Đôi nam, nữ khi đã thuận tình lấy nhau, sẽ được mang lá số ra để xem xét, nếu hợp nhau thì đám cưới diễn ra dễ dàng. Nếu lá số không hợp nhau, thì nhất thiết không được lấy nhau. Đây là niềm tin quan trọng – vì người Cao Lan cho rằng nếu đã hợp số nhau thì cuộc sống của họ sẽ êm đẹp suốt đời.
Trong xã hội truyền thống, trai gái Cao Lan khi đi chơi làng để hát, họ được tự do tìm hiểu, tỏ tình rồi yêu đương. Tuy nhiên, việc đến được với nhau hay không thì tình yêu của bản thân hai người là chưa đủ, mà còn có các yếu tố khác chi phối, quyết định. Sau khi đôi trai gái đồng thuận, người con trai sẽ về thưa chuyện với bố mẹ, được cha mẹ chấp thuận thì trải qua việc xem lá số, so tuổi. Do đó, trai gái ngoài yêu nhau còn phụ thuộc vào số mệnh có hợp nhau hay không. Trong thực tế, cho dù hai bên nam nữ có tha thiết yêu nhau nhưng nếu số mệnh không hợp, họ cũng không lấy nhau được.
Nguyên tắc một vợ một chồng
Người Cao Lan theo chế độ một vợ một chồng với nguyên tắc ngoại hôn dòng họ. Trong quan hệ vợ chồng, người Cao Lan khá bình đẳng, có khi người vợ hơn chồng 1 – 2 tuổi là bình thường. Trong đời sống vợ chồng của người Cao Lan, rất ít khi xảy ra đổ vỡ, rất hiếm thấy những cặp vợ chồng ly dị, dù hoàn cảnh thế nào thì họ vẫn luôn bên nhau, không xa dời. Mỗi cặp vợ chồng thường đẻ nhiều con, trước đây mỗi gia đình đẻ từ 5 – 6 con, nếu chẳng may cặp vợ chồng nào không có con trai hoặc không có con thì họ cũng không bỏ nhau hay lấy vợ khác mà họ xin con về nuôi. Ngay trong xã hội truyền thống, chế độ đa thê ở tộc người Cao Lan cũng rất hiếm khi xảy ra. Thảng hoặc vì muộn mằn, hiếm hoi đường sinh đẻ thì người chồng được vợ đồng ý cho đi lấy vợ lẽ.
Nguyên tắc phụ quyền
Người Cao Lan thực hiện nguyên tắc cư trú bên chồng theo chế độ phụ hệ. Người phụ nữ phải chịu khá nhiều ràng buộc trong cuộc sống đời thường, đặc biệt là quan hệ giữa nàng dâu với gia đình nhà chồng. Trong những ngày mới về làm dâu, cô dâu phải ý tứ, khép nép, sáng dậy sớm nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, bưng nước rửa mặt phục vụ bố, mẹ chồng… Phong tục của người Cao Lan cho phép phụ nữ goá chồng được tái giá, nhưng phải đợi hết tang (3 năm) và phải được nhà chồng đồng ý. Khi tái giá, người phụ nữ góa bụa ấy không được mang theo con cái và tài sản của chồng để lại.
Tuy nhiên, họ ngoại của người Cao Lan được coi trọng đặc biệt trong nghi lễ hôn nhân. Cậu ruột là người đứng ra thay mặt nhà gái đưa cho nhà trai tờ giấy báo lễ vật thách cưới, nhận lễ vật mà nhà trai mang đến và hướng dẫn cô dâu chú rể lễ gia tiên trước khi cháu gái về nhà chồng.
Nguyên tắc chọn mối
Trong hôn nhân của người Cao Lan, vai trò của ông mối đặc biệt quan trọng vì ông mối sẽ gắn bó với đôi vợ chồng đó suốt đời. Thông thường, họ phải chọn người làm mối/ông mối là những người có uy tín trong cộng đồng, phúc hậu, song toàn và phải khác họ.
Trong tục cưới hỏi, người Cao Lan chọn người làm mối (mòi) rất cẩn thận bởi vai trò rất quan trọng không chỉ trong suốt quá trình diễn ra việc cưới hỏi, mà còn cả trong cuộc sống sau này của đôi vợ chồng đó. Chính vì vậy, ngoài việc chuẩn bị cho các nghi lễ trong đám cưới, ông mối còn làm nhiệm vụ hòa giải cho đôi vợ chồng trong suốt thời gian tiếp theo. Ông mối còn được coi như bố mẹ nuôi của đôi vợ chồng trong cuộc sống đời thường. Người Cao Lan gọi là “bố mẹ mối” và đôi vợ chồng được gọi là “con mối”. Trong thực tế, có những cặp vợ chồng/con mối mỗi khi gặp chuyện khúc mắc, họ đều tìm đến bố mẹ mối để giãi bày, tìm hướng giải quyết. Khi đó bố mẹ mối sẽ đứng ra phân tích, giải quyết những mâu thuẫn cho hai vợ chồng bằng con đường hòa giải.
Người Cao Lan chọn người làm mối theo những tiêu chuẩn rất khắt khe. Đó là người quen biết cả hai bên gia đình (nhà trai và nhà gái); là người có đạo đức, có phong cách tốt, được mọi người trong cộng đồng kính nể; người làm mối phải có cả con trai và con gái (không sinh con một bề). Khi được sự đồng ý của người mình định nhận làm cha mẹ mối thì con mối mang một lễ nhỏ đến làm lễ nhận con. Nghi lễ tuy đơn giản nhưng mang tính chất linh thiêng và hết sức ý nghĩa không chỉ với đôi trai gái mà còn đối với cả người được chọn làm ông mối. Từ đây con mối coi cha mẹ mối như cha mẹ mình, phải thực hiện các nghĩa vụ làm con như: “sống tết chết giỗ”. Khi gia đình cha mẹ mối có công có việc, thì con mối cũng phải lo như việc của nhà mình, và cha mẹ mối cũng coi con mối như con đẻ của mình. Trong quan hệ anh em giữa con mối với con đẻ của bố mẹ mối, dù người con mối có ít tuổi hơn những người con đẻ của bố mẹ mối đi bao nhiêu đi nữa nhưng họ vẫn là bề trên, những người kia phải gọi họ là anh chị. Trong trường hợp, bố/mẹ mối có nhiều con mối thì theo thứ tự, con của con mối trước sẽ làm anh/chị. Với mỗi người Cao Lan, sau khi kết hôn xong bao giờ họ cũng có “3 bố, 3 mẹ” (bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ và bố mẹ mối). Với mỗi cặp vợ chồng người Cao Lan, họ có thể nhận 1 đến 2 con mối, nhưng cũng có người nhận đến 4 – 5 con mối. Những người được nhận nhiều con mối, họ coi đó là niềm vinh dự của gia đình, bởi vì họ phải là người có uy tín, được cộng đồng coi trọng thì mới được nhiều người nhận làm bố mẹ mối.
Trong gia đình người Cao Lan, khi có con lớn đến tuổi lấy vợ, cha mẹ sẽ “rậm rạp” cho con một nơi tương xứng, đảm bảo môn đăng hậu đối với gia đình nhà mình. Khi đó thì các bước của lễ cưới sẽ được tiến hành. Một đám cưới truyền thống được tổ chức gồm nhiều bước với những thủ tục khá rườm rà và tốn kém. Chính vì vậy, mỗi gia đình phải tích lũy trong nhiều năm trước bao gồm tiền bạc và các vật phẩm khác như: đồ dùng (quần áo, giường tủ, chăn đệm…), rượu chè, trâu bò, lợn gà, gạo thóc…
Hôn nhân đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của người Cao Lan. Cùng với các nghi lễ vòng đời khác như: sinh đẻ, tang ma, các nghi lễ hôn nhân của người Cao Lan là tập hợp một hệ thống những nghi thức phong phú, sinh động thể hiện quan niệm hôn nhân, những quy tắc bắt buộc và hành vi được luật tục khuyến khích trong xã hội truyền thống…
Hôn nhân của người Cao Lan xưa được tiến hành qua nhiều bước, nhiều nghi thức và tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc truyền thống. Những nguyên tắc ấy thể hiện rất phong phú, sinh động nét văn hóa hồn hậu, chất phác và tình cảm cộng đồng chặt chẽ bắt nguồn từ việc mưu cầu một tiểu gia đình bình an, hạnh phúc trong một cộng đồng phát triển bền vững./.


trong lễ cưới của người Cao Lan tại xã Lục Sơn, tỉnh Bắc Giang
Trần Ái Vân – Khoa Thể thao và Du lịch






